Tác giả: | Cập nhật lần cuối: 23-09-2023 | 181 lượt xem

Trận Bô Cô – Chiến thắng vang dội của nhà Hậu Trần trước quân Minh xâm lược

Trận Bô Cô hay Bồ Cô diễn ra vào ngày 30 tháng 12 năm 1408 (tức 14 tháng 12 năm Mậu Tý) tại bến Bô Cô bên sông Đáy, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay. Đây có lẽ là trận đánh lớn nhất trong cuộc chiến giữa nhà Minh (Trung Quốc) với quân khởi nghĩa người Việt do nhà Hậu Trần lãnh đạo. Quân Minh do Chinh Di tướng quân Mộc Thạnh chỉ huy đã bị quân nhà Hậu Trần do Giản Định đế chỉ huy đánh bại.

Bối cảnh

Giữa năm 1407nhà Hồ bị quân Minh đánh bại. Nước Đại Ngu bị diệt và bị quân Minh chiếm đóng. Tuy ban đầu dùng danh nghĩa giúp nhà Trần chống nhà Hồ nhưng khi chiếm được Đại Ngu, Minh Thành Tổ lại hạ lệnh lùng bắt con cháu họ Trần và biến Đại Ngu thành quận Giao Chỉ nội thuộc Trung Quốc. Sự đô hộ tàn bạo của nhà Minh đã dẫn đến việc nhân dân Đại Việt nổi dậy mong muốn giành lại độc lập, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ nổi ra trên phạm vi cả nước.[3]

Tháng 11 năm 1407, Trần Triệu Cơ tôn tông thất nhà Trần cũ là Trần Ngỗi lên làm vua, lập lại nhà Trần tại Yên Mô (Ninh Bình), dấy binh chống lại quân Minh.

Thời gian đầu, nhà Hậu Trần yếu thế và bị mãnh tướng Trương Phụ nhà Minh đánh bại, quân Hậu Trần phải rút vào Hóa châu. Ngay lúc đó, chiến tranh giữa nước Minh và các bộ tộc Bắc Nguyên lại bùng phát dữ dội. Trương Phụ đã nhận được lệnh triệu hồi, cùng Mộc Thạnh rút về Đông Quan (Hà Nội) rồi phải mang đại quân về nước, giao quyền đánh dẹp lại cho các tướng người Hán và các hàng tướng người Việt.

Nắm bắt thời cơ, nhà Hậu Trần mở đợt tấn công mới đánh thẳng ra Nghệ An, sau đó đến cuối năm 1408 thì tiến chiếm toàn bộ các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa. Theo lệnh của Giản Định Đế, Đặng Tất mang toàn quân tấn công ra bắc. Khi quân Hậu Trần đến Tràng An thì rất đông hào kiệt ra hưởng ứng.

Ngày 31 tháng 8 âm lịch năm 1408, Đô ty Giao Chỉ cùng ty Bố chính, Án sát tâu với Minh Thành Tổ:

“Nghịch tặc Giản Định cùng bọn Đặng Tất tụ tập dân chúng làm loạn, xin tăng thêm binh để tiễu bình. Định là quan cũ của họ Trần, khi đại quân đến dẹp giặc họ Lê, y ra hàng, bèn sai người đưa đến kinh sư. Rồi y cùng Trần Hy Cát bỏ trốn, cùng với ngụy quan đất Hoá Châu là bọn Đặng Tất, Nguyễn Suý mưu nổi loạn. Bọn chúng suy tôn Định làm vua, tiếm xưng kỷ nguyên Hưng Khánh, hoạt động tại các vùng núi non tại Hoá Châu và Nghệ An, chế tạo vũ khí, chiêu tập đồ đảng. Lúc này đại quân đã về nước, bọn Định mang quân ra đánh Bình Than và ải Hàm Tử; chặn đường đi lại tại Tam Giang. Chúng đánh phá gần thành Giao Chỉ [Đông Đô], các châu huyện như Từ Liêm, Oai Man, Thượng Hồng, Đại Đường, Ứng Bình, Thạch Thất đều theo chúng; thế giặc càng ngày càng thịnh, quan quân đánh mấy lần nhưng không lập được công, nên xin tăng thêm binh.”

Nhận được lời tâu, vua Minh dụ Đô Chỉ huy Sứ ty Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên, Thành Đô điều 4 vạn quân, lại sai Kiềm quốc công Mộc Thạnh đeo ấn Chinh di tướng quân, chỉ huy quân từ Vân Nam sang bình định Giao Chỉ. Vua Minh còn sai Binh bộ thượng thư Lưu Tuấn làm tham mưu quân sự cho Mộc Thạnh. Ngoài ra, Minh Thành Tổ sắc dụ Đô đốc Thiêm sự Lữ Nghị, Hoàng Trung ở Đô ty Giao Chỉ chuẩn bị 2 vạn thủy quân cùng thuyền bè, khí giới để hiệp lực với Mộc Thạnh. Mộc Thạnh đem quân tới Vân Nam, họp quân với Lữ Nghị tiến về hướng nam. Quân Giản Định đế sau khi giải phóng được một vùng rộng lớn thì cũng ra sức dưỡng quân, tuyển quân, trữ lương, rèn khí cụ, đóng chiến thuyền.

Lực lượng

Sử sách Việt Nam không ghi rõ số quân nhà Hậu Trần, chỉ ghi khi quân Hậu Trần gồm 5 trấn từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa và khi ra đến Tràng An thì số người theo rất đông[2]. Quân chủ lực theo Đặng Tất tiến ra bắc tham chiến vào khoảng 5-6 vạn.

Về lực lượng quân Minh, bộ Hoàng Minh thực lục dẫn lời vua Minh THành Tổ, ghi nhận đạo quân viện binh của Chinh Di tướng quân Mộc Thanh và Thượng thư Bộ Binh Lưu Tuấn gồm 4 vạn; còn quân của Đô ty Lã Nghị ở Giao Chỉ là 2 vạn quân[1]. Sử Việt Nam cũng ghi chép khác nhau, Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng quân Minh có ít nhất 10 vạn người, trong đó đạo viện binh của Mộc Thạnh là 5 vạn[2], còn Việt sử tiêu án không ghi số quân Minh, Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi số quân viện binh của Mộc Thạnh là 4 vạn[4].

Diễn biến

Chi tiết về trận đánh được các sách sử mô tả rất sơ sài. Theo mô tả trong sử sách, đạo quân viện binh của Mộc Thạnh từ Vân Nam kéo sang, hợp với quân của Lã Nghị và tiến đến Bô Cô. Phía quân Hậu Trần được mô tả là “quân ngũ nghiêm chỉnh”[5] hay “quân dung nghiêm chỉnh”[2], dưới quyền chỉ huy của Quốc công Đặng Tất, có vua Giản Định cùng đi thân chinh, tiến từ Tràng An đến Bô Cô và chạm trán quân Minh.

Cả quân Hậu Trần và quân Minh đều chia ra hai cánh thủy và bộ cầm cự với nhau[4].

Nhân lúc gió to và nước triều thổi mạnh, Giản Định Đế và Đặng Tất lệnh cho quân sĩ đóng cọc để giữ và đắp lũy hai bên bờ. Mộc Thạnh chia quân thủy bộ để chống lại hai cánh quân Hậu Trần[5].

Hai bên giáp chiến ác liệt, vua Giản Định Đế tự mình cầm dùi đánh trống khích lệ tướng sĩ, thúc các cánh quân Hậu Trần xông vào trận[4][5]. Hai bên giao chiến từ giờ Tỵ (khoảng 11 giờ) đến giờ Thân (16 giờ)[2]. Sử sách Việt Nam ghi nhận quân Hậu Trần chém được Binh bộ thượng thư là Lưu Tuấn, Đô ty Lã Nghị[2][4] và Tham chính ty Bố Chính Giao Chỉ là Lưu Dục[5]. Sử Trung Quốc cho rằng Lưu Tuấn không phải tử trận mà đã thắt cổ tự vẫn trong lúc bị vây hãm[6].

Quân Minh đại bại, Mộc Thạnh dẫn tàn quân chạy vội vào thành Cổ Lộng gần đó[2].

Về thiệt hại của quân Minh, Đại Việt sử ký toàn thư ghi là 10 vạn người[2], nhưng các sử gia hiện đại căn cứ theo số quân Minh cũ và mới chỉ có khoảng 6 vạn nên cho rằng con số của Toàn thư mang tính khuếch trương[7]. Các sách Việt sử tiêu án và Khâm định Việt sử thông giám cương mục không ghi thiệt hại của quân Minh. Riêng Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ thận trọng hơn, cho rằng có trên 10 vạn quân Minh tham chiến, gần như toàn bộ bị giết và tan vỡ chạy[8].

Không có tài liệu nào nói về thiệt hại của quân Hậu Trần.

Đại Việt sử ký toàn thư  chép về trận đánh này như sau:

“Tháng 12, ngày 14, quốc công Đặng Tất cả phá quân Minh tại Bồ Cô hãn. Bấy giờ nhà Minh sai tổng binh Mộc Thạnh mang tước Kiềm quốc công, đeo ấn Chinh di tướng quân, đem 5 vạn quân từ Vân Nam đến Bồ Cô, vừa khi vua Giản Định cũng từ Nghệ An tới, quân dung nghiêm chỉnh, gặp lúc nước triều lên gấp, gió thổi mạnh, sai các quân đóng cọc giữ và lên hai bên bờ đắp lũy. Thạnh cũng chia quân thủy, quân bộ cùng cầm cự. Vua cầm dùi đánh trống, hạ lệnh các quân thừa cơ xông đánh từ giờ Tỵ [khoảng 11 giờ] đến giờ Thân [16 giờ], quân Minh thua chạy, chém được Binh bộ thượng thư Lưu Tuấn, Đô ty Lữ Nghị, cùng quân mới, quân cũ đến hơn 10 vạn tên. Chỉ một mình Mộc Thạnh chạy thoát trốn về thành Cổ Lộng.” 

 

Ý nghĩa và hậu quả

 Minh Thành Tổ được coi là hoàng đế kiệt xuất nhất nhà Minh, và là một trong các hoàng đế kiệt xuất nhất lịch sử Trung Quốc, được xưng tụng là Vĩnh Lạc đại đế (永樂大帝). Thời kỳ của ông ta được ca ngợi là Vĩnh Lạc thịnh thế (永樂盛世), đưa Đại Minh vươn tới đỉnh cao quyền lực. Quân Minh dưới thời Minh Thành Tổ là một lực lược được đánh giá là rất mạnh và thiện chiến. Thế nhưng, lại thất bại thảm hại trước lực lượng nhà Hậu Trần

Trận Bô Cô là trận thắng lớn nhất của quân Hậu Trần. Một bộ phận lớn quân Minh đồn trú và viện binh sang Giao Chỉ đã bị tiêu diệt[7].

Trước thời cơ lớn, Giản Định Đế muốn nhân đà thắng lợi đánh ngay vào lấy Đông Quan, nhưng Đặng Tất lại chủ trương đánh xong số quân địch còn sót lại rồi mới tiến. Vua tôi bàn mãi chưa quyết định được, viện binh quân Minh ở Đông Quan đã tiếp ứng cho Mộc Thạnh chạy về cố thủ Đông Quan. Đặng Tất chia quân vây các thành và gửi hịch đi các lộ kêu gọi hưởng ứng đánh quân Minh

Toàn thư chép:

“Vua bảo các quân:
“Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch, như sét đánh không kịp bịt tai, tiến đánh thành Đông-Quan thì chắc chắn phá được chúng.‟Tất tâu: ‘Hãy bắt hết bọn giặc còn sống sót, không nên để mối lo về sau.’
Do dự mãi không quyết định được. Quân giữ thành Đông-Quan đến cứu viện, đón Mộc Thạnh về.”

 

Do bất đồng về sách lược, vua Giản Định không bằng lòng với Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân, nội bộ vua tôi nhà hậu Trần trở nên chia rẽ. Vài tháng sau, sau khi nghe theo lời gièm pha, vua Giản Định sợ uy tín của hai người quá cao, lại nghi ngờ hai tướng “có ý khác” nên tháng 3 năm 1409, vua Giản Định giết chết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.[9]

Hai người con hai ông là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị bất bình vì cha bị giết oan, bỏ đi lập Trần Quý Khoáng làm vua, tức là Trần Trùng Quang Đế.[9]

Vì bất đồng ý kiến về chiến thuật sau trận đánh, nhà Hậu Trần đã không tận dụng được trận thắng lớn để đánh quân Minh mà cuối cùng lại chia rẽ và tự suy yếu.

ĐẶNG DUNG – Vị tướng tài ba thời Hậu Trần

Giận cha bị giết oan, ông cùng Nguyễn Cảnh Dị lập Trần Quý Khoáng lên ngôi ở Nghệ An, tức Trùng Quang Đế, rồi đánh úp bắt được Giản Định Đế. Vì nước gạt bỏ thù nhà, ông cùng Trùng Quang Đế tôn Trần Ngỗi lên làm thượng hoàng, cùng mưu toan việc khôi phục.
Năm 1409, Giản Định đế và Trùng Quang đế chia quân làm hai, Giản Định đế tiến quân đến Hạ Hồng, vua Trùng Quang tiến quân đến Bình Than, các người hùng kiệt ở các lộ đều hưởng ứng; gặp lúc Trương Phụ dẫn quân đến, Giản Định đế bỏ thuyền lên bộ, Trương Phụ chia quân đi đằng sau, bắt được giải về Kim Lăng. Cánh quân vua Trùng Quang giữ nhau với Trương Phụ ở Bình Than, chia cho Đặng Dung giữ cửa Hàm Tử, vì thiếu lương thực, quân tan vỡ, vua Trùng Quang được tin, tự liệu không chống nổi, lại về Nghệ An.
Năm 1410, vua Trùng Quang dẫn quân tiến ra Bắc, thắng một số trận nhưng vì hiệu lệnh không thống nhất, quân Minh tiến đến đâu, quân Hậu Trần tan vỡ đến đó.
Vua Trùng Quang lại rút binh về Nghệ An. Đầu năm 1411, vua nhà Minh sai Trương Phụ mang 14 vệ, tổng cộng 78.400 quân (Minh sử chép 2.400 quân) tiếp viện cho Mộc Thạnh, năm sau Trương Phụ dẫn binh vào Nghệ An, gặp Nguyễn Súy, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung ở trận Mô Độ. Hai bên liều chết đánh nhau chưa phân thắng bại, thì Nguyễn Súy và Nguyễn Cảnh Dị bất ngờ dẫn quân vượt biển rút chạy, Hồ Bối bỏ thuyền lên bờ. Đặng Dung thế cô, không có cứu viện, liền đi thuyền nhẹ vượt biển trốn đi. Năm 1413, Trương Phụ lại tiến đánh Nghệ An, đến đây nhà Hậu Trần phải lui vào Hóa Châu.
Tháng 6 năm Quý Tỵ (1413) quân Trương Phụ vào đến Nghệ An, quan Thái phó nhà Hậu Trần là Phan Quý Hữu ra hàng, được mấy hôm thì mất. Trương Phụ cho con Quý Hữu là Phan Liêu làm Tri phủ Nghệ An. Phan Liêu muốn tâng công, nên nói cho Phụ biết Trần Quý Khoáng có bao nhiêu tướng tá người nào giỏi, người nào dở, quân số nhiều ít, sơn xuyên chỗ hiểm, chỗ không thế nào.
Trương Phụ bèn quyết ý vào Hóa Châu, và hội chư tướng lại để bàn kế tiến binh. Mộc Thạnh nói rằng: “Hóa Châu núi cao bể rộng khó lấy lắm”. Trương Phụ nhất định vào đánh cho được, nói rằng: “Ta sống cũng ở đất Hóa Châu này, mà chết cũng ở đất Hóa Châu này. Hóa Châu mà không lấy được thì không mặt mũi nào về trông thấy chúa thượng!”. Lập tức truyền cho quân thủy bộ tiến vào đánh Hóa Châu.
Tháng 9 năm 1413, quân Trương Phụ vào đến Thuận Châu, Nguyễn Súy và Đặng Dung giữ sông Thái Gia, đặt phục binh, nhân đêm đánh úp dinh Trương Phụ. Đặng Dung nhảy lên thuyền Trương Phụ toan bắt sống, nhưng không biết mặt, vì thế Trương Phụ mới nhảy xuống sông lấy thuyền nhỏ mà chạy thoát được. Bấy giờ quân Hậu Trần còn rất ít, Trương Phụ thấy vậy đem binh đánh úp lại, Đặng Dung địch không nổi phải bỏ chạy.
Tháng 12, năm 1413, từ khi thua trận Sái Già, quân Hậu Trần thế yếu không thể chống với quân Minh được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi; Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung muốn chạy sang Tiêm La, Trương Phụ đuổi theo bắt được. Nguyễn Cảnh Dị mắng chửi Phụ rằng: Chính ta muốn giết mày, bây giờ lại bị mày bắt! Mắng chửi mãi không ngớt mồm, Phụ đem giết đi, lấy gan ăn. Trùng Quang đế chạy sang Lão Qua, Nguyễn Súy chạy sang Minh Linh cũng đều bị quân nhà Minh bắt.
Chẳng được bao lâu vua Trần và các tướng đều bị bắt và bị giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Trùng Quang Đế nhảy xuống nước tự tử, Đặng Dung và Nguyễn Súy cũng nhảy xuống theo tự sát. Đặng Dung có làm bài thơ Thuật hoài, sau được nhiều người truyền tụng:
Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa!
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.
Bản dịch của Tản Đà :
Việc đời man mác, tuổi già thôi!
Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi.
Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,
Tan tành sự thế luống cay ai!
Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời.
Đầu bạc giang san thù chửa trả,
Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.
Năm 1428, Lê Lợi sau khi đánh xong quân Minh, ban chiếu cho hai cha con ông biển vàng tám chữ: “Tiết liệt cương trung – Trung thần hiếu tử”, cho lập đền thờ tại quê hương Tả Thiên Lộc, cấp 200 mẫu ruộng lộc điền, giao cho huyện xã hằng năm cúng tế.
Vua Lê Thánh Tông ban chiếu tặng cha con ông hai câu đối:
Quốc sĩ vô song, song quốc sĩ
Anh hùng bất nhị, nhị anh hùng
Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn rằng:
Trận đánh ở Sái Già, Đặng Dung, Nguyễn Súy đem tàn quân trơ trọi chống lại bọn giặc mạnh, quân tướng đều tinh nhuệ. Dung nửa đêm đánh úp doanh trại giặc làm cho tướng giặc sợ hãi chạy trốn, đốt hết thuyền bè, khí giới của chúng, không phải người thực sự có tài làm tướng, thì có làm được như thế hay không? Thế nhưng cuối cùng vẫn bại vong, đó là do trời. Tuy thất bại, cũng vẫn vinh quang, vì sao vậy? Bọn Dung vì nghĩa không thể cùng sống với giặc, phải tiêu diệt bọn chúng mới nghe, cho nên mới hết lòng, hết sức giúp đỡ Trùng Quang để mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm, kiên trì chiến đấu với giặc, dẫu có bất lợi, nhưng ý chí không núng, khí thế càng hăng, đến kiệt sức mơí chịu thôi. Lòng trung vì nước của người bề tôi, dẫu trăm đời sau vẫn còn tưởng thấy được!

Chia sẻ

close