Màn “cướp dâu” của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn không chỉ nổi tiếng là vị tướng tài ba, trực tiếp chỉ huy 2/3 lần đánh thắng quân Nguyên – Mông (năm 1285 và 1288) mà còn được biết đến với màn cướp dâu chấn động trong lịch sử nhà Trần.

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, năm 1237, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) lên ngôi vua đã lâu mà vẫn không có con nối dõi.

Lo nhà Trần bị tuyệt hậu, Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Cảnh phế Hoàng hậu Lý Chiêu Hoàng để kết hôn với chị dâu mình là công chúa Thuận Thiên – vợ của Trần Liễu, cha của Trần Quốc Tuấn.

Thấy vợ bị em trai cướp, Trần Liễu tức giận mang binh đi rửa hận nhưng bất thành. Cuối cùng, ông buông giáp quy hàng, bị giáng xuống làm An Sinh Vương, cho về an trú ở đất Yên Sinh.

Lúc đó, chị gái Trần Cảnh là Thụy Bà công chúa thương Trần Quốc Tuấn mới 7 tuổi đã phải rời kinh đô theo cha, nên cầu xin vua cho nhận nuôi Quốc Tuấn. Thời gian này, ông được công chúa Thụy Bà cho học văn võ, lớn lên cùng con cháu hoàng tộc trong cung.

Trong 8 năm ở cung cấm, Trần Quốc Tuấn lớn lên và nảy sinh tình cảm với Thiên Thành – trưởng công chúa của nhà Trần.

Những tưởng mối tình thanh mai trúc mã sẽ có kết thúc viên mãn, nhưng đến khi Thiên Thành tới tuổi gả chồng, vua Trần Thái Tông đã hạ chỉ gả nàng cho Trung Thành Vương – con trai của Nhân Đạo Vương.

Tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Ảnh: Thành An
Tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn – vị tướng tài ba trong lịch sử nhà Trần. Ảnh: Thành An

“Đại Việt sử ký toàn thư” viết ngắn gọn về vụ cướp dâu chấn động lịch sử nhà Trần: “Tân Hợi – năm thứ 20, gả trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành Vương, con trai Yên Sinh Vương là Trần Quốc Tuấn đã cướp lấy, công chúa đã về với Trần Quốc Tuấn”.

Theo đó, ngày 15.2.1251, nhà vua mở hội 7 ngày đêm, bày nhiều tranh vẽ về lễ kết tóc và các trò chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem, ý muốn cho công chúa Thiên Thành và Trung Thành Vương kết hôn. Trước đó, vua đã cho Thiên Thành về ở vương phủ của cha Trung Thành Vương, chờ làm lễ ăn hỏi.

Tuy nhiên, khi cả kinh thành tưng bừng tham gia lễ hội, Trần Quốc Tuấn đau lòng việc người con gái mình yêu phải làm vợ người khác, nên đã đưa ra một quyết định vô cùng táo bạo – cướp dâu.

Trong đêm tối, nhân lúc mọi người vui vẻ với lễ hội, Trần Quốc Tuấn đã lẻn vào phủ Nhân Đạo Vương. Ông tìm cách trèo tường, vượt qua lính tuần tra, tìm đến chính xác phòng của công chúa. Cặp uyên ương gặp lại nhau trong tình cảnh éo le.

Trong văn hóa Á Đông thời xưa, ngoại tình là một tội rất nặng. Năm 1042, vua Lý Thánh Tông đã ban chiếu rằng, kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm với vợ cả, vợ lẽ nhà người ta thì người chủ đánh chết ngay cũng không bị trị tội. Do đó, nếu vụ việc vỡ lở, cả Trần Quốc Tuấn và công chúa Thiên Thành đều gặp họa lớn trước cơn giận của cha con Nhân Đạo Vương.

Để tránh điều này, Trần Quốc Tuấn đã nghĩ cách dồn nhà vua vào thế sự đã rồi.

Ngay sau khi đột nhập vào phòng công chúa, Trần Quốc Tuấn lập tức sai thị nữ của công chúa đi báo cho mẹ nuôi mình là Thụy Bà công chúa. Nhận được tin, bà vội vàng vào cung than khóc với vua: “Không ngờ Quốc Tuấn càn rỡ đang đêm lẻn vào chỗ của Thiên Thành. Nhân Đạo Vương đã bắt giữ hắn rồi, e sẽ giết hắn mất. Xin bệ hạ rủ lòng thương, sai người đến cứu”.

Lúc đó, nhà vua tức giận nhưng không lỡ xuống tay giết con gái cưng và con trai của Trần Liễu – anh trai mình. Do đó, ông dành cho người bao vây phủ Nhân Đạo Vương, xông vào phòng công chúa Thiên Thành để áp giải, thực chất là hộ tống Trần Quốc Tuấn ra ngoài an toàn.

Lúc đó, cả phủ Nhân Đạo Vương mới ngỡ ngàng nhận ra Trần Quốc Tuấn đã vào phủ “tư thông” với công chúa.

Hôm sau, Thụy Bà công chúa đã mang vào cung 10 mâm vàng sống làm sính lễ, hỏi cưới công chúa Thiên Thành cho con nuôi mình. Trước chuyện đã rồi, Trần Thái Tông đành xuống chiếu gả Thiên Thành công chúa cho Trần Quốc Tuấn. Để bù đắp, vua còn ngậm ngùi cắt 2.000 khoảnh ruộng tốt ở huyện Ứng Thiên ban cho Nhân Đạo Vương.

Cuối cùng, nhờ mưu kế tài tình, Trần Quốc Tuấn thành công cướp dâu, lấy được người mình yêu. Cả hai sống hạnh phúc, sinh được 4 người con trai và 1 con gái. Câu chuyện cướp dâu của Hưng Đạo Vương cũng trở thành giai thoại “có một trong hai” trong lịch sử Việt, lưu truyền mãi đến sau này.

Bản chất của vụ án, từ góc nhìn của xã hội phong kiến.

Xét vụ án của Hưng Đạo vương, Toàn thư viết rằng: Ngày 15 tháng ấy, vua mở hội lớn 7 ngày đêm, bày các tranh về lễ kết tóc và nhiều trò chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem, ý muốn cho công chúa Thiên Thành là lễ kết tóc với Trung Thành Vương. Trước đó, vua cho công chúa Thiên Thành đến ở trong dinh Nhân Đạo Vương (Nhân Đạo Vương là cha Trung Thành vương).
Tức là lúc này, công chúa Thiên Thành đang ở nhà chồng và chờ làm lễ kết tóc, nguyên văn là 合 䯻 (hợp kế). Vậy hợp kế hay lễ kết tóc là gì?
Sách Mộng lương lục, Quyển 20, Giá thú, của người thời Tống là Ngô Tự Mục, mô tả rất chi tiết toàn bộ quá trình của một hôn lễ thời bấy giờ, phần cuối của hôn lễ được viết như sau: Hai người cùng đứng trước trung đường, bèn mời một người nữ thân thuộc còn đủ cả cha mẹ từ nhà trai, dùng cây cân hoặc thoi dệt khẽ vén khăn che đầu lên, khi ấy dung nhan mới lộ rõ. Sau đó làm lễ bái gia thần và gia miếu, rồi chào bái các bậc thân tộc. Lễ xong, cô dâu lại bước lùi, tay nắm dải đồng tâm kết, dắt chú rể trở về phòng tân hôn để làm lễ giao bái.
Tiếp đó cùng ngồi trên giường, lễ quan dùng khay vàng bạc đựng vàng, bạc, tiền, tiền màu và các loại trái cây rắc lên giường. Sai kỹ nữ dâng đôi chén rượu, đáy chén buộc dải đồng tâm kết đỏ xanh, làm lễ giao cẩn. Lễ xong, để hai chén rượu (một úp một ngửa) dưới giường, lấy ý đại cát đại lợi.
Kế đến, nam bên trái nữ bên phải cùng kết tóc, gọi là “hợp kế”. Lại chú rể tay ngắt bông hoa trên đầu cô dâu, cô dâu tay cởi khuy áo xanh của chàng, rồi cùng ném hoa và khuy áo xuống gầm giường. Sau đó mời khép màn trướng lại.
Như vậy, lễ kết tóc hay hợp kế là bước gần như cuối cùng trong hôn lễ, trước khi hai người động phòng.
Vậy, công chúa Thiên Thành đã về ở phủ Nhân Đạo vương nhưng chưa làm lễ kết hôn với Trung Thành vương thì đã tính là vợ Trung Thành vương chưa?
Tam quốc chí, Ngụy thư, Lô Dục truyện, có ghi lại một vụ án kể về chuyện một người con gái tên là Bạch, về nhà chồng được vài ngày, chưa kịp gặp mặt chồng thì đã bị bắt đi lính, chẳng may người này đào ngũ, theo luật thời bấy giờ, kẻ đào ngũ bị trị tội rất nghiêm khắc, liên lụy đến cả vợ con, khi đó Lô Dục đã biện bạch cho bị cáo rằng:
Tình cảm của người phụ nữ chỉ nảy sinh khi được gặp mặt, nghĩa vợ chồng chỉ thành khi đã làm lễ. Kinh Thi có câu: Chưa thấy quân tử, lòng buồn rười rượi/ Đã thấy chàng rồi, lòng vui thư thái. Lễ lại ghi: Người con gái chưa làm lễ miếu kiến mà chết thì đem về chôn nơi họ nhà gái, vì chưa thành thân. Nay Bạch sống đã chịu nỗi buồn chưa gặp mặt chồng, chết lại mang nỗi đau không được làm vợ, mà các quan lại muốn xử tử, thì nếu sau khi đã làm lễ động phòng, tội còn thêm vào đâu được nữa? Huống chi sách Lễ ghi: Khi xét tội liên đới nên theo mức nhẹ, ý nên suy xét tình tiết giảm nhẹ. Kinh Thư cũng nói: Thà buông kẻ có tội chứ không giết oan người vô tội, chính là sợ hình phạt quá nặng. Nếu cho rằng Bạch đã nhận lễ cưới, vào nhà chồng, thì trừng phạt đã là đủ, giết đi là quá nặng.
Tào Tháo cho rằng lời biện luận của Lô Dục rất phải.
Dựa vào bài biện luận xuất sắc của Lô Dục, nếu áp dụng thành án lệ cho vụ án của Hưng Đạo vương, chúng ta có thể thấy rằng, công chúa Thiên Thành và Trung Thành vương chưa làm lễ nên nghĩa phu thê chưa thành. Nói cách khác, tính chất vụ án của Hưng Đạo vương và vụ án Trần Khánh Dư là hoàn toàn khác nhau.

 

close